Bệnh vảy nến là một bệnh về da rất chủ yếu. Mặc dù nhóm bệnh này không gây nên tác động đến sức khỏe. Thế nhưng tác động rất lớn đến tâm lý, thẩm mỹ của bệnh nhân thông qua những biểu hiện trên da. Vậy những nguyên nhân mắc phải bệnh lý vảy nến là gì? Cùng tìm hiểu tới có các biện pháp tránh xa các yếu tố gây căn bệnh nhé.

Các nguyên nhân mắc phải bệnh vảy nến là gì?

Có thể nói, lý do gây căn bệnh vảy nến chưa rõ ràng. Có giải thích nghi, nguyên nhân gây ra căn bệnh này là vì một sự nhầm lẫn của hệ miễn dịch, đặc biệt là các bạch cầu loại T. Thông thường, những tế bào loại T sẽ tuần hành khắp thân thể theo máu. Để nhằm mục đích là truy lùng, tiêu diệt các sinh vật hoặc hóa chất tạo nên bệnh lý.

Căn bệnh vảy nến xảy ra là do, các tế bào T này trong quá trình hoạt động đã xâm nhập nhầm các tế bào biểu bì, tưởng chúng là thù địch. Khi bị kích thích, biểu bì sẽ tăng sinh rất nhanh trong vòng vài ngày thay vì cả tháng như thường lệ. Với sự tăng sinh nhanh như vậy, những tế bào biểu bì sẽ không tróc kịp. Thế nên sẽ xếp thành từng lớp vẩy trên da. Như vậy, có thể xem lý do chính gây nên căn bệnh vảy nến là bởi hệ miễn dịch. Nhưng, những tác nhân kích thích nhất định có thể làm nhóm bệnh nặng hơn và dễ dàng tái phát hơn. Các tác nhân đó bao gồm:

Yếu tố di truyền:


Mặc dù có khả năng xem sự rối loạn hệ miễn dịch. Thế nhưng căn bệnh này còn có khả năng truyền. Theo như thống kê cho biết, có đến 40% trường hợp mắc bệnh vảy nến là vì bố mẹ truyền cho con.

Môi trường ô nhiễm

Môi trường khá nhiều bụi bẩn, không khí ô nhiễm, rác thải, nguồn nước, nguồn thức ăn không vệ sinh… có thể gây nên căn bệnh vảy nến. Và ngoài ra là một số nhóm bệnh vô cùng nguy hại khác.

Nhiễm trùng hay bệnh:

Từ yếu tố môi trường ô nhiễm, sẽ làm cho con người dễ dàng mắc các loại bệnh nhiễm trùng như: viêm họng hay viêm amidan, từ đó có khả năng gây nên căn bệnh vảy nến. Thêm vào đó bởi thói quen sinh hoạt không vệ sinh, hoặc tiếp xúc với những chất tẩy rửa quá mạnh cũng là lý do mắc phải căn bệnh vảy nến và làm nhóm bệnh chuyển biến. Căn bệnh vảy nến có thể nghiêm trọng hơn tại người bị bệnh HIV.

Triệu chứng của bệnh lý vẩy nến

Biểu hiện đặc trưng của bệnh vẩy nến là những mảng dày, đỏ được phủ do các lớp vảy trắng hay bạc. Ngoài ra căn cứ theo vị trí nhận biết và đặc điểm của các tổn thương, còn có những dấu hiệu riêng biệt theo từng dạng bệnh, cụ nguy cơ như sau:

- Vẩy nến mụn mủ: nhận thấy mụn mủ tại khu vực da tay và chân.

- Vẩy nến giọt: các vết thương có hình dạng giọt nước phát hiện trên khắp thân thể. Dạng vẩy nến này thường gặp tại trẻ nhỏ.

- Vẩy nến móng: móng dày và có những lỗ nhỏ trên bề mặt móng.


- Vẩy nến da đầu: trên da đầu có vảy hoặc những mảng da dày màu trắng.

- Vẩy nến nếp gấp: thường gặp tại người bị béo phì với những vết thương ở vùng nếp gấp của da như nách, háng...

- Viêm khớp vẩy nến: sưng các khớp ngón tay, ngón chân hoặc xương sống, đầu gối.

- Vẩy nến thể mảng: những mảng da thường phát hiện ở khuỷu tay, đầu gối và khu vực dưới lưng.

Chẩn đoán nhóm bệnh vẩy nến

Nhóm bệnh vẩy nến thường được chẩn đoán tùy thuộc trên những triệu chứng lâm sàng. Trong một số trường hợp, người bệnh có khả năng được chỉ định thực hiện sinh thiết da, theo đó một mẩu da nhỏ được lấy ra để khám dưới kính hiển vi để xác định cơ bản xác loại vẩy nến.

Trường hợp nghi ngờ bị viêm khớp vẩy nến, bệnh nhân có khả năng sẽ phải thực hiện xét nghiệm máu để loại trừ, tránh nhầm lẫn với rất nhiều bệnh lý khác như viêm khớp dạng thấp. Khu vực khớp bị tác động cũng được chụp X quang.

Xử lý bệnh vẩy nến

Mục tiêu của xử lý vẩy nến là giúp cải thiện những biểu hiện và hạn chế tiến triển của bệnh lý. Trong hầu như các trường hợp, đầu tiên bệnh nhân sẽ được chỉ định sử dụng thuốc bôi tại chỗ như kem hoặc thuốc mỡ.

Hiện tượng kỹ thuật chữa trị này không thành công hoặc tình trạng bệnh lý nặng hơn, bệnh nhân có khả năng sẽ phải khắc phục bằng quang điều trị liệu.

Trong trường hợp bệnh vẩy nến quá nghiêm trọng và các kỹ thuật chữa trị nêu trên đều không thành công, phương pháp chữa bệnh hệ thống có khả năng được áp dụng. Người bệnh sẽ được chỉ định dùng thuốc dạng uống hoặc tiêm.

Nguồn:phòng thăm khám đa khoa âu á